Việt Nam hiện đang được toàn thế giới ca ngợi không ngừng nghỉ với cách thức quản trị rủi ro hiệu quả và kiểm soát thành công trong cuộc chiến chống đại dịch Covid-19, ghi nhận 0 ca tử vong. Nhiều nguồn tin dự đoán rằng Việt Nam sẽ được hưởng rất nhiều lợi ích từ xu hướng dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu của Mỹ, giảm thiểu sự phụ thuộc vào “công xưởng” Trung Quốc và tập trung vào những vùng lân cận khác.
Vào đầu tháng năm, báo chí liên tục đưa tin về việc đế chế công nghệ Mỹ “Apple” bắt đầu sản xuất 3 đến 4 triệu tai nghe AirPod tại Việt Nam chỉ trong tháng 4 – chiếm 30% tổng đầu ra cho cả quý. Đây cũng là một dấu hiệu cho thấy rằng Apple đang nỗ lực chuyển dịch một số khâu trong chuỗi cung ứng ra khỏi Trung Quốc, để tránh những rủi ro khủng hoảng tương tự như thời điểm dịch bệnh này.
Những nhà cung ứng của Apple, bao gồm Foxconn, Pegatron và Compal Electronics cũng theo đó mở rộng hoạt động ở thị trường Việt Nam. Inventec – công ty chuyên lắp ráp Airpod hiện tại đang xây dựng nhà máy tại Việt Nam.
Quan hệ Mỹ – Trung và các động thái của Mỹ để “thoát Trung”
Khủng hoảng dịch bệnh đã đặt nhiều áp lực lên các cường quốc năm châu, do đó, Tổng thống Mỹ Donald Trump càng thể hiện sự bài xích đối với Trung Quốc, nghiêm trọng hơn cả trước đó. Thậm chí, tổng thống Mỹ còn cho lan truyền những giả thuyết đầy mưu mô, cho rằng virus Corona bắt nguồn từ một phòng thí nghiệm sinh học ở Vũ Hán, chứ không phải từ khu chợ ẩm ướt.
Tổng thống Trump đã khẳng định với Fox News đầu tháng 5 về việc cắt đứt mọi quan hệ với Trung Quốc. Sự đe dọa này đang dần trở nên hiện thực khi Thượng viện Mỹ thống nhất chấp thuận bộ luật buộc các doanh nghiệp Trung Quốc dừng việc niêm yết trên các sở giao dịch chứng khoán tại Mỹ.
Vào ngày 18/05, các nhà quan chức Mỹ đã hoạch định các sắc lệnh thúc đẩy các doanh nghiệp Mỹ chuyển hoạt động về nước, bao gồm việc thành lập quỹ hỗ trợ 25 tỷ đô cho các công ty sản xuất hàng hóa thiết yếu. Chính phủ Nhật Bản cũng có kế hoạch tương tự để kêu gọi các doanh nghiệp “thoát Trung”, trở về nước.
Hơn nữa, Tổng thống Trump gần đây còn đe dọa sẽ áp một mức thuế mới lên mức thuế 25% đối với 370 tỷ đô hàng nhập khẩu từ Trung Quốc đã được công bố trước đó. Điều này chắc chắn sẽ khiến cho các doanh nghiệp Mỹ đang hoạt động trong chuỗi cung ứng Trung Quốc phải đau đầu rất nhiều.
Nhiều báo cáo cho thấy rằng chính quyền của tổng thống Trump hiện đang nỗ lực hình thành nên một liên minh mới với những đối tác “đáng tin cậy” hơn, được gọi là “Economic Prosperity Network” (Mạng lưới phát triển kinh tế) để hiện thực hóa việc tách ra khỏi Trung Quốc.
Ông Mike Pompeo – ngoại trưởng Hoa Kỳ, đã chia sẻ ông đang trong quá trình đàm phán với Hà Nội, Úc, Ấn Độ, Nhật Bản, New Zealand và Hàn Quốc về “cách thức tái cấu trúc chuỗi cung ứng để ngăn chặn một cuộc khủng hoảng tương tự trong tương lai”. Điều này ám chỉ rằng Việt Nam có thể sẽ trở thành một thành viên trong liên minh mà Mỹ muốn hướng đến.
Việt Nam trên con đường phục hồi kinh tế sau đại dịch
Cũng trong thời điểm này, chính phủ Việt Nam đang dốc sức tìm kiếm những động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mới, đặc biệt khi đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã giảm sút 15% trong 4 tháng đầu năm, so với cùng kỳ năm ngoái.
Tại hội nghị trực tuyến lớn nhất diễn ra vào đầu tháng 5, Thủ tướng chính phủ Việt Nam, ông Nguyễn Xuân Phúc đã khuyến khích tất cả các doanh nghiệp cùng hợp tác để bấm nút “khởi động lại” cho nền kinh tế nước nhà – được so sánh như “lò xo bị nén đang chờ để bung tỏa”.
Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội tuyệt vời khi các công ty đa quốc xa đã chuyển dịch một phần trong chuỗi cung ứng toàn cầu sang Việt Nam – quốc gia có ưu thế về chi phí nhân công và cơ sở vật chất. Năm ngoái, Hàn Quốc là nhà đầu tư lớn nhất vào Việt Nam, chiếm 1/5 trong tổng các dự án FDI mới với tổng số tiền đầu tư tương đương 38 tỷ đô. Hồng Kông, Nhật Bản và Trung Quốc nắm giữ các vị trí tiếp theo.
Trước đại dịch Covid-19, nền kinh tế toàn cầu đang mong chờ vào sự kết thúc của cuộc chiến thương mại Mỹ – Trung nhờ vào thỏa thuận “giai đoạn 1” giữa hai cường quốc. Tuy nhiên, Việt Nam là một trong số ít nước châu Á thực sự được lợi trong cuộc chiến thương mại này, khi nhiều nhà sản xuất buộc phải chuyển dịch sản xuất sang các nước lận cận. Xu hướng này còn được gọi là chiến lược “China + 1 (China plus one)”.
Sở dĩ Việt Nam được nhắm đến bởi nhiều nhà đầu tư trong quá trình chuyển dịch là bởi:
– Mức lương lao động tối thiểu thấp: dao động từ 3 triệu đến 4,4 triệu đồng mỗi tháng, theo vùng miền.
– 12 FTAs (Hiệp định thương mại tự do) đang có hiệu lực, trong đó có Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). Ngoài ra, hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và châu Âu sẽ sớm có hiệu lực trong năm nay.
Liệu “Made in Vietnam” có thay thế được “Made in China” không?
Mặc dù những xu hướng chuyển dịch chuỗi cung ứng đang mang lại nhiều lợi ích cho Việt Nam, tuy nhiên, thương hiệu “Made in Vietnam” sẽ rất khó và thậm chí không thể thay thế được “Made in China”.
Giám đốc vận hành của Tập đoàn Hong Kong – APEC Trade Policy Study đã nhấn mạnh một số điểm khác biệt lớn giữa Việt Nam và Trung Quốc trong một bài báo đăng tải trên South China Morning Post.
Thứ nhất là về kích thước nền kinh tế. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Trung Quốc năm 2018 cao gấp 55 lần so với Việt Nam, chỉ tính GDP của 15 tỉnh ở Trung Quốc cũng cao hơn hẳn so với GDP Việt Nam.
Thứ hai là về quy mô ngành sản xuất. Trung Quốc có khoảng 800 triệu nhân lực trong ngành, trong khi Việt Nam chỉ có khoảng 55 triệu lao động. Năm 2017, Trung Quốc chiếm hơn 28% tổng thị phần đầu ra sản xuất trên toàn cầu, và con số cho Việt Nam chỉ đạt mức 0,27%.
Thứ ba liên quan đến khía cạnh kỹ thuật và cơ sở vật chất. Trung Quốc sở hữu cảng container lớn nhất thế giới – cảng Thượng Hải – với 40 triệu container hàng năm. Cảng lớn nhất của Việt Nam là cảng Sài Gòn (TP. Hồ Chí Minh) chỉ đủ khả năng tiếp nhận khoảng 6,15 triệu container mỗi năm. Chưa kể đến, hiện nay, Việt Nam đang phải vật lộn giải quyết các vấn đề về nhu cầu điện tăng cao, buộc phải cắt điện của một số khu dân cư và văn phòng.
Thứ tư là về thị trường nội địa. Trung Quốc từ trước đến nay luôn là thị trường màu mỡ, đảm bảo nguồn lợi nhuận lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài. Trong khi đó, GDP của Việt Nam còn đang thấp hơn so với một số quốc gia kém phát triển khác như Libya, Guatemala và Belize.
Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Mỹ – Việt Nam cần làm gì để được hưởng lợi từ xu hướng chuyển dịch chuỗi cung ứng?
Kể từ khi Donald Trump được bổ nhiệm lên vị trí tổng thống vào tháng 1 năm 2017, Mỹ luôn duy trì một mối quan hệ “sáng nắng chiều mưa” với Việt Nam. Thậm chí, trong thời điểm chiến tranh thương mại Mỹ – Trung lên đến mức căng thẳng nhất, Tổng thống Trump còn đứng ra chỉ trích Việt Nam là “kẻ lạm dụng thương mại tồi tệ nhất” khi Việt Nam ghi nhận mức thặng dư thương mại với Mỹ rất cao.
Trước lời chỉ trích gay gắt đó, chính phủ Việt Nam thậm chí phải nỗ lực giảm thiểu thặng dư mậu dịch bằng cách ký kết nhiều hợp đồng nhập khẩu giá trị lên đến hàng tỷ đô, bao gồm việc mua lại máy bay Boeing. Tuy nhiên, thặng dư thương mại với Mỹ tại Việt Nam vẫn tiếp tục tăng và đạt 47 tỷ đô vào năm 2019.
Tuy nhiên, nếu Washington tiếp tục kiên quyết với ý định tách ra khỏi chuỗi cung ứng Trung Quốc và dịch chuyển nhiều hơn sang Việt Nam, lượng hàng hóa xuất khẩu từ Việt Nam sang Mỹ sẽ tăng lên đáng kể, và đương nhiên, thặng dư thương mại của Việt Nam sẽ cứ được đà tăng lên liên tục.
Nếu tổng thống Trump thắng trong cuộc bầu cử sắp tới, và nếu ông tiếp tục bị “ám ảnh” với việc giảm thiểu thâm hụt mậu dịch trong khi nỗ lực chuyển dịch chuỗi cung ứng sang việt Nam, Hà Nội và chính phủ sẽ phải cố gắng trong việc cân đối cán cân thương mại của mình.
Dịch và biên tập bởi: Dandelion